Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993

Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993 là một cuộc biểu tình lớn với sự tham gia của hơn 40.000 người, bao gồm Phật tử và dân thường, diễn ra tại Chùa Thiên Mụ, Huế vào ngày 24 tháng 5 năm 1993. Cuộc biểu tình là màn đụng độ giữa các phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất với chính quyền Việt Nam và đã bị dập tắt chỉ sau một ngày.

Bối cảnh

Đàn áp Phật giáo từ sau 1975

Nỗ lực kiểm soát Phật giáo miền Nam và Giáo hội Phật giáo Thống nhất

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) là một tổ chức tôn giáo ra đời vào tháng 1 năm 1964, trên cơ sở hợp nhất các hội đoàn, tông phái miền Nam Việt Nam về một mối sau Biến cố Phật giáo 1963. Tổ chức này từng có một lịch sử đụng độ kéo dài với chính quyền Việt Nam kể từ sau tháng 9 năm 1975.[1][2] Thời gian này, chính quyền đương thời đã đàn áp Phật giáo miền Nam theo Chỉ thị số 20 của Đảng Cộng sản Việt Nam được Tổng Bí thư Lê Duẩn ký từ năm 1960 và áp dụng trên cả nước, sau khi đã thực thi ở miền Bắc.[3] Ngay trong giai đoạn Chính phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam mới lên nắm quyền lãnh đạo, việc các cô nhi viện, đại học cơ sở chùa chiền của GHPGVNTN bị tịch thu đã làm nổ ra phản kháng từ các tăng ni giáo hội. Tháng 3 năm 1977, Hội đồng chấp hành GHPGVNTN đã công khai lên án việc làm của chính quyền mới và tổ chức nhiều cuộc biểu tình Phật giáo rầm rộ ở các thành phố lớn. Kết quả, những lãnh đạo giáo hội gồm Thích Huyền Quang, Thích Điều Hành và Thích Quảng Độ, lần lượt là nguyên phó chủ tịch điều hành, phó chủ tịch và tổng thư ký hội đồng chấp hành giáo hội, đã bị bắt giữ và đàn áp.[1][4] Không chỉ vậy, chính quyền địa phương thời gian này cũng yêu cầu treo hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên bàn thờ, cấm treo cờ Phật giáo và cưỡng chế chiếm đoạt các cơ sở Phật giáo làm trụ sở quân sự, cơ quan nhà nước hay làm thành chuồng lơn.[3][5] Theo ghi nhận của sư Thích Giác Đức, xuyên suốt giai đoạn từ giữa thập niên 70 đến 1995 đã có hơn 400 tu sĩ Phật giáo bị bắt giữ mà không thông qua xét xử và 50 trong số đó được xác nhận đã chết trong tù.[5]

Không dừng lại ở đó, chính quyền đã đưa ra nhiều chính sách ngăn cản sự phát triển của Phật giáo tại Việt Nam, bao gồm việc tich thu ruộng đất các chùa và cấm người dân đi cúng dường; không cho phép nhà sư mặc áo tràng ra ngoài khuôn viên chùa; tổ chức các cuộc họp công dân vào giờ đi chùa; buộc người mới xuất gia phải hoàn tục và trả về cho gia đình; và nhất cử nhất động của nhà sư đều bị theo dõi chặt chẽ.[6] Từ vài tháng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính phủ cách mạng lâm thời đã lập ra Ban liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh để ép các nhà sư trong GHPGVNTN tham gia vào tổ chức nhưng gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ. Dù bị người của chính quyền hăm dọa nhưng đa số các nhà sư khi đó vẫn chọn ở lại trong giáo hội, một số thì chọn cách vượt biên để trốn khỏi sự kiểm soát của giới cầm quyền.[6] Tại cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia năm 1976, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Quyết định số 310/TTG yêu cầu các nam tu sĩ từ độ tuổi 18 đến 25 phải đi "nghĩa vụ quân sự". Ngay sau đó, Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo đã có văn bản gửi lại cho Thủ tướng đương thời với những trường hợp ngoại lệ được xin phép miễn nhưng đều không được đáp ứng.[7] Những bất đồng trên ngày càng làm gia tăng căng thẳng giữa chính quyền và các nhà sư theo thời gian.

Phản kháng với chính quyền không chỉ diễn ra ở giới lãnh đạo cao tầng GHPGVNTN mà còn ở cả các nhà sư trên khắp miền Nam Việt Nam. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1975, trụ trì của Thiền viện Dược Sư Thích Huệ Hiền cùng 11 tăng ni khác đã tổ chức tự thiêu tập thể tại một địa điểm cách Cần Thơ 30 km hướng về tỉnh Sóc Trăng. Khác với phản ứng về vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức 1963, vụ tự thiêu tại một cơ sở của GHPGVNTN này nhanh chóng bị chính quyền ỉm đi; chùa Dược Sư bị tịch thu cùng với thi thể của những người đã tự thiêu. Theo lời trong thư tuyệt mệnh để lại, nguyên do cho cuộc tự sát tập thể này là nhằm yêu cầu chính phủ cách mạng "tôn trọng triệt để tự do tín ngưỡng của các tôn giáo đúng mức".[8] Bên trên vị trí tự thiêu của 12 tăng ni còn có một băng rôn với dòng chữ "Thà chết vinh hơn sống nhục".[9] (thông tin này theo mình có thể lược bỏ) Trước cái chết của 12 tăng ni, ban lãnh đạo GHPGVNTN đã yêu cầu điều tra khách quan cũng như đòi chính quyền thực hiện quyền tự do tôn giáo nhưng kết quả, 6 thành viên chủ chốt của tổ chức đã bị bắt giữ bao gồm Thích Huyền Quảng, Thích Quảng Độ và Thích Thiện Minh.[10] Riêng Hòa thượng Thích Thiện Minh sau đó đã được nhiều tổ chức và Hòa thượng Thích Quảng Độ xác nhận bị "đánh chết trong tù".[10][11] Theo lời của sư Thích Thiện Quang, người vượt biên sang Indonesia vào năm 1979, kể lại, trong hai năm 1977 và 1978 đã có thêm 18 tăng, ni Phật giáo khác tự thiêu riêng lẻ để chống lại sự đàn áp của giới cầm quyền, và cuộc biểu tình gần nhất tính tới thời điểm bài phỏng vấn ra đời là vào tháng 3 năm 1979, khi một ni cô đã tự thiêu ngay trước cổng của một cô nhi viện. Những vụ tự thiêu và đàn áp các nhà sư miền Nam còn tiếp tục diễn ra trong các thập niên tiếp theo nhưng không được tiết lộ hay được thừa nhận bởi chính quyền.[8]

Thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Vì nhận thấy không thể kiểm soát được GHPGVNTN,[12] chính quyền đã tìm cách hạn chế dần hoạt động của GHPGVNTN và đi đến giải tán tổ chức. Theo ông Xuân Thủy – Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân vận – lý do mà chính quyền mong muốn giải thể giáo hội là vì Đảng không thể lãnh đạo tổ chức này và thậm chí, tổ chức này còn có "áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam".[13] Vào ngày 16 tháng 4 năm 1977, Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố Hồ Chí Minh đã phát thông báo yêu cầu Phật tử trên địa phương chống lại GHPGVNTN với nội dung cho rằng nhóm người này có "mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cộng sản" và "âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước". Trong thông báo cũng tuyên bố kèm theo sẽ thẳng tay đàn áp.[3] Tháng 11 cùng năm, chính quyền Việt Nam ban hành nghị quyết số 297, trong đó đặt các hoạt động tôn giáo và văn hóa dưới sự kiểm soát của nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Nội dung của nghị quyết bao gồm việc hạn chế các dịch vụ tôn giáo, đào tạo tôn giáo và tổ chức các cuộc tụ họp và cầu nguyện. Nhà nước cũng được quyền lựa chọn giáo sĩ đại diện cho các tổ chức tôn giáo, đồng thời các cơ quan địa phương có quyền thu giữ những tài sản tôn giáo bị coi là trái phép. Điều quan trọng nhất trong số này là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) có quyền cấm mọi hoạt động tôn giáo đi ngược lại với mục tiêu "xây dựng chủ nghĩa xã hội". Nghị quyết trên đã làm nổ ra phản ứng mạnh mẽ từ những người trong nhóm tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo tại Việt Nam.[12]

Vào năm 1980, chính quyền Việt Nam đã lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) như là đại diện Phật giáo hợp pháp duy nhất.[1][14] GHPGVN được thành lập như một tổ chức trực thuộc MTTQVN dưới sự chỉ đạo của ĐCSVN.[2] Phương châm hoạt động của giáo hội là "Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội".[15] Chỉ một năm sau đó vào 1981, GHPGVNTN đã chính thức bị cấm.[1] Vì vậy, việc các nhà sư không tham gia vào tổ chức GHPGVN đều bị coi là "bất hợp pháp": họ bị chính quyền đe dọa và gây áp lực buộc phải gia nhập giáo hội hoặc bị cho vào trại cải tạo hay bị bắt tù giam. Bằng chứng là trong các năm 1984 đến 1986, hàng loạt vụ bắt giữ những nhà sư thuộc GHPGVNTN đã diễn ra tại nhiều tỉnh thành ở miền Nam, trong số đó nhằm vào những nhân vật lớn trong giáo hội này như Thích Tuệ Sỹ, Thích nữ Trí Hải, Thích Trí Siêu,...[6] Để hoạt động, nhiều ngôi chùa cũng phải bỏ cụm từ "thống nhất" để trở thành "Giáo hội Phật giáo Việt Nam".[14]

Sau khi lệnh cấm giáo hội được ban ra, trong năm 1982 Thích Quảng Độ và Thích Huyền Quang cùng bốn lãnh đạo giáo hội khác đã bị đày về quê nhà do phản đối việc thành lập GHPGVN và bị quản thúc tại gia trong nhiều năm.[1][3] Đến ngày 7 tháng 7 cùng năm, chính quyền đã cưỡng chế chùa Ấn Quang, trụ sở của GHPGVNTN; toàn bộ tư liệu và hồ sơ tại Viện Hóa Đạo bên trong chùa bị đốt sạch trong năm ngày mới hết.[3] Những sự kiện trên xảy ra trong bối cảnh hàng loạt vụ bắt bớ của giới cầm quyền trong Nam với những người có liên quan đến chế độ cũ; các sinh hoạt tôn giáo cũng bị hạn chế nghiêm ngặt cho tới trước giai đoạn chủ nghĩa cộng sản bước vào thời kỳ suy thoái và sụp đổ.[1] Nhưng trái ngược với động thái đàn áp GHPGVNTN, nguyên Phó Ban Dân vận Trung ương Trần Bạch Đằng khi đó lại nói rằng, "việc thống nhất Phật giáo nên hay không nên trong lúc này, và cần phải thống nhất như thế nào, quý vị hoàn toàn tự định đoạt lấy". Ông cũng khẳng định Đảng cùng Nhà nước Việt Nam "chỉ tham gia hỗ trợ khi được yêu cầu".[13]

Thời kỳ cởi mở tôn giáo

Kể từ đầu thập niên 1990, nhờ những chính sách trong thời kỳ Đổi Mới, cách tiếp cận hoạt động tôn giáo của chính quyền Việt Nam dù vẫn bị kiểm soát chặt chẽ đã phần nào được nới lỏng: bắt đầu cho phép tự do thờ cúng nhiều hơn; các chùa chiền, nhà thờ được xây dựng và trùng tu; và các dòng tu được tham gia vào những hoạt động công tác xã hội,... Chính vì điều này, GHPGVNTN bắt đầu kêu gọi chính phủ công khai công nhận giáo hội, cũng như cho phép sự tự chủ trong việc quản lý giáo hội, trả lại tài sản bị tịch thu trước 1975 và trả tự do cho những tù nhân tôn giáo, chính trị.[1] Trong giai đoạn này, tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI diễn ra vào tháng 12 năm 1986, chính phủ Việt Nam cũng đã thực hiện ân xá cho hàng ngàn tù nhân chính trị bị bắt giữ từ sau năm 1975, đồng thời, cho phép phơi bày tham nhũng trong nội bộ Đảng và Chính quyền.[16] Ngoài ra, vào năm 1991, Thích Đôn Hậu cũng đã có lời kêu gọi khôi phục GHPGVNTN và kích hoạt Điều lệ Giáo hội.[17] Cũng trong thời gian này, chính phủ Việt Nam đã thông qua Nghị quyết mới cho việc hoạt động tôn giáo ở Việt Nam với quy định bao gồm việc đề cử các chức vụ tôn giáo, các tu sĩ đi ra nước ngoài và các chuyến thăm của đại diện các tổ chức tôn giáo nước ngoài đến Việt Nam phải được chính phủ chấp thuận. Quy định này cũng bao gồm việc pháp luật sẽ xử lý các hành vi sử dụng tôn giáo để "phá hoại nền độc lập dân tộc".[12] Một số nhà nghiên cứu cũng đã cho rằng, nhiều tu sĩ đã xem đây là một thời điểm thích hợp để yêu cầu tự do tôn giáo.[18]

Năm 1993 đã chứng kiến sự bùng nổ về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, khi hàng trăm bài viết về nhân quyền xuất hiện trên hàng loạt trang báo chính thống của chính quyền. Theo nhà báo Võ Văn Ái, hiện tượng trên xảy ra là do tác động của hai sự kiện lớn xảy ra trong năm này: thứ nhất là Hội nghị Thế giới về Nhân quyên của Liên Hợp Quốc, tổ chức tại Viên cùng Cuộc họp trù bị khu vực Đông Nam Á tổ chức ở Bangkok – nơi lần đầu tiên Việt Nam tuân thủ theo các tiền đề về "hệ giá trị Châu Á". Thứ hai đó là biểu tình Phật giáo ở Huế xảy ra vào tháng 5 cùng năm. Việc một cuộc biểu tình được tổ chức công khai và rầm rộ như vậy đã trở thành một thách thức chưa từng có tiền lệ và gây chấn động cho giới cầm quyền. Các bài viết bàn luận về nhân quyền khi này thường chia thành hai loại bài, loại một là phân tích lý thuyết về tiền đề nhân quyền trong nỗ lực xây dựng một khái niệm cụ thể dựa trên "hệ giá trị Việt Nam", loại hai là công kích những nhà sư đứng lên biểu tình vì "lợi dụng nhân quyền và tôn giáo để làm tổn hại đến nhà nước".[19] Tuy nhiên, có những bài viết lại một mặt bàn luận cởi mở về vấn đề nhân quyền hay lịch sử Phật giáo nhưng mặt khác lại lên án gay gắt Phật giáo tại Việt Nam, đánh đồng hoạt động Phật giáo với "diễn biến hòa bình" – một âm mưu toàn cầu của các "thế lực thù địch" nhằm phá hoại chế độ.[19][20] Đây được xem là lần đầu tiên và cuối cùng "hệ giá trị Việt Nam" được nhắc đến trên báo chí chính thức, theo sau đó là một cuộc đàn áp rộng rãi Phật giáo từ chính quyền. Nhân quyền tại Việt Nam cũng trở thành vấn đề cấm kỵ trên các phương tiện truyền thông nhà nước nói chung.[20]

Cái chết của Thích Đôn Hậu

Thích Đôn Hậu là Tăng thống thứ ba của GHPGVNTN, trụ trì chùa Thiên Mụ tại Huế. Ông là một nhân vật quan trọng trong giáo hội, từng có nhiều hoạt động ủng hộ chính quyền miền Bắc Việt Nam nhưng sau này ngày càng đi ngược lại các chính sách tôn giáo của chính phủ cách mạng.[21] Từ năm 1977, để phản ứng vụ bắt ba lãnh đạo của giáo hội là Thích Huyền Quảng, Thích Quảng Độ và Thích Thiện Minh, người sau này qua đời khi vẫn đang ở trong trại giam,[a] Thích Đôn Hậu đã quyết định từ bỏ chức vụ Đại biểu quốc hội và vị trí trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà chính quyền giao cho ông.[1][22] Việc này được chính quyền Việt Nam sau này gọi là "biếu hỷ" trong tuổi già.[22] Năm 1991, ông viết một bản chúc thư hiệu triệu các Phật tử hải ngoại đoàn tụ lại với hội GHPGVNTN theo điều lệ của giáo hội năm 1964. Di chúc của Thích Đôn Hậu cũng chọn người kế vị lãnh đạo giáo hội là Thích Huyền Quang, đối tượng đã bị chính quyền đày lưu vong ra sống chục năm ở Quảng Ngãi. Hai hành động này về sau đã châm ngòi cho một cuộc xung đột lớn giữa GHPGVNTN và chính quyền Việt Nam, kéo theo là các cuộc biểu tình diễn ra công khai, cả ôn hòa lẫn bạo lực, diễn ra trong ba năm từ 1992 đến 1994 và vấp phải sự đàn áp dứt khoát từ phía nhà nước.[1]

Chùa Thiên Mụ, nơi diễn ra lễ tang Thích Đôn Hậu đồng thời đánh dấu việc Thích Huyền Quang lên làm Tăng thống thứ tư GHPGVNTN.

Ngày 23 tháng 4 năm 1992, Hòa thượng Thích Đôn Hậu được thông báo đã viên tịch tại chùa Thiên Mụ, Huế ở tuổi 88. Tang lễ của ông diễn ra ở chùa Thiên Mụ vào ngày 3 tháng 5 cùng năm. Trước đó, đã có một cuộc đụng độ giữa các giáo sĩ tại chùa với chính quyền trong cách thức tiến hành tang lễ.[21] Mặc dù Thích Đôn Hậu đặc biệt yêu cầu lễ tang của mình phải diễn ra theo đúng truyền thống Phật giáo, song chính phủ muốn tổ chức tang lễ theo nghi thức nhà nước và truy tặng cho ông Huân chương Hồ Chí Minh vì là người có công với cách mạng. Một bộ phận các lãnh đạo giáo hội đã đứng ra chống lại việc tổ chức này vì cho rằng nó không phù hợp với ý muốn của người quá cố. Sau đó, chính quyền cũng được cho là đã từ bỏ việc chuẩn bị này.[1] Trong đó, một nhà sư đã dọa tự thiêu và bốn nhà sư khác tuyệt thực tại chùa Thiên Mụ nơi Thích Đôn Hậu trụ trì. Cuối cùng, lễ tang Thích Đôn Hậu được GHPGVNTN đứng ra tổ chức, với sự tham gia của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ.[21]

Tại buổi tang lễ Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang – người ban đầu bị cấm vào Huế – đã được cho phép tham dự sự kiện sau khi tuyệt thực một ngày. Tại đây, ông được Hòa thượng Thích Nhật Liên đích thân trao tặng con dấu của Pháp viện theo di chúc của Đôn Hậu, biểu thị cho sự chuyển giao quyền lực lớn nhất trong giáo hội. Dù bị cấm phát biểu ở buổi lễ, Thích Huyền Quang vẫn công khai phản đối hành động thành lập GHPGVN và yêu cầu nhà nước khôi phục tài sản và quyền hạn của GHPGVNTN. Đến ngày 24 tháng 6 cùng năm, ông viết thành một bản kiến nghị phản đối việc chính phủ giải tán GHPGVNTN vào năm 1981, đồng thời yêu cầu cho phép giáo hội này hoạt động hợp pháp trở lại. Những bản ghi âm tang lễ và bản sao bản kiến nghị được rải truyền ra khắp các chùa trên cả nước đã gây nên một cuộc đàn áp chính thức. Chính quyền nhanh chóng cho công an lục soát các ngôi chùa để tìm bản sao kiến nghị của Thích Huyền Quang, thẩm vấn những người sở hữu nó và trong một số trường hợp là bắt giữ những người ủng hộ nhà sư.[1]

Khi các bài viết và bài phát biểu của Thích Huyền Quang ngày một lan rộng, chính quyền đã cố gắng chuyển sự chú ý từ những yêu cầu của nhà sư sang tính chính danh trong việc bổ nhiệm ông lên làm Tăng thống GHPGVNTN. Ngày 5 tháng 12 năm 1992, trụ trì chùa Thiên Mụ Thích Trí Tựu, cũng là đệ tử của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, đã lên án chính quyền trong việc buộc ông làm mất uy tín của Thích Huyền Quang sau cuộc gặp với Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thừa Thiên Huế ngày hôm trước. Theo đó, vị chủ tịch đã đặt nghi vấn với Thích Trí Tựu về di chúc cuối cùng của Thích Đôn Hậu là giả mạo nhưng ngay sau đó bị ông phản đối và bảo đảm di chúc "bằng chính mạng sống của mình".[1] Ngoài ra, do Thích Đôn Hậu là trụ trì chùa Thiên Mụ, các nhà sư đã mong muốn tự quyết định người thay thế cho ông, tuy nhiên, GHPGVN do Chính phủ kiểm soát lại muốn quyết định điều này.[23]

Diễn biến

Cái chết của Tăng thống Thích Đôn Hậu đánh dấu cho các hoạt động mới nhằm tái lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Kể từ ngày tang lễ của Đức Tăng Thống, các cuộc đối đầu dần leo ​​thang và lên đến đỉnh điểm vào 1993 với cuộc biểu tình ở Bà Rịa – Vũng Tàu[1] và đặc biệt là biểu tình lớn xảy ra tại Huế vào tháng 5 năm 1993. Trong những tháng trước khi diễn ra biểu tình, hai nhà sư Thích Trí Tựu và Thích Hải Tạng, hai lãnh đạo kế cận của chùa Thiên Mụ, đã liên tục bị bắt giữ, thẩm vấn và sách nhiễu nhiều lần bởi chính quyền, đến mức Thích Trí Tựu đã hai tuyên bố sẽ tự thiêu nếu chính phủ tiếp tục đàn áp GHPGVNTN.[24]

Vụ tự thiêu tại chùa Thiên Mụ

Ngày 21 tháng 5 năm 1993, một Phật tử có tên thật là Nguyễn Ngọc Dũng đã đến ngồi gần mộ Thích Đôn Hậu để tự thiêu.

Căng thẳng giữa GHPGVNTN và chính quyền đã gia tăng từ tháng 4 năm 1993, khi ngày giỗ đầu tiên theo âm lịch của Thích Đôn Hậu đang đến gần. Trong suốt các ngày 10 đến 12 tháng 4 năm 1993, chùa Thiên Mụ, địa điểm đặt lăng mộ Thích Đôn Hậu, đã bị công an canh giữ nghiêm ngặt. Thích Huyền Quang cũng bị chính quyền địa phương nơi ông cư trú ngăn cản tham dự lễ giỗ.[1]

Vào hồi 9:00 sáng (GMT+7) ngày 21 tháng 5 năm 1993, một cư sĩ ước chừng khoảng 50 tuổi[6] đã đến ngồi cạnh mộ Thích Đôn Hậu và tự thiêu.[1][25] Vụ tự thiêu diễn ra ngay trước sự chứng kiến của những du khách đang tham quan chùa.[6] Theo tường thuật từ tờ The New York Times, trước khi tự thiêu người đàn ông đã đặt hoa và trái cây lên ba chiếc đĩa, mỗi cái đĩa đặt trước một trong ba bức tượng Phật bằng vàng của chùa. Từ vị trí này, ông đi bộ ra khoảng một trăm thước đến sân đá hoa cương ở phía sau chùa rồi đổ xăng vào người, đánh diêm để tự tử. Một trong số các vị lãnh đạo trong chùa cho biết, người đàn ông không hề biểu hiện sự đau đớn trên gương mặt. Trong quá trình tự thiêu, anh luôn liên tục nói, "Đức Phật".[25] Ngay sau đó, cảnh sát địa phương đã có mặt tại hiện trường để di dời thi thể và đem theo tài sản của người đàn ông, bao gồm một bức thư mà người này để lại.[1]

Từ gia đình của người tự thiêu, các nhà sư tại chùa ngày hôm đó đã xác định người đàn ông này là một Phật tử tên Nguyễn Ngọc Dũng, người gốc Huế. Nhưng để bảo vệ gia đình người tự thiêu khỏi bị ảnh hưởng từ vụ việc, những nhà sư đã quyết định không công khai danh tính thật của Phật tử trên.[26][27] Khi trụ trì của chùa là Thích Trí Tựu yêu cầu công an trả lại thi thể người tự thiêu để các nhà sư làm lễ an táng theo Phật giáo dành cho người quá cố, các nhà chức trách đã từ chối.[1] Thích Trí Tựu cùng các nhà sư khác quyết định lập một bàn vong nhỏ cho người đàn ông đã tự thiêu, trong đó viết một tấm bảng đặt bên nơi người đàn ông đã tự thiêu với dòng chữ: "Tại đây, vào lúc 9 giờ sáng ngày 21 tháng 5, một Phật tử đã phát đại nguyện tự thiêu để bảo vệ đức tin Phật giáo".[1] Khi nghi thức đang diễn ra thì công an đã xuất hiện và đến phá đi.[3][25]

Phản ứng lại với vụ tự thiêu, chính quyền đã ngay lập tức phủ nhận người tự thiêu là một nhà sư. Ngay trong tối ngày xảy ra tự thiêu, từ đài phát thanh Huế loan tin rằng người tự thiêu ở chùa Thiên Mụ không phải Phật tử mà là "một kẻ nghiện ma túy tuyệt vọng mắc bệnh AIDS".[1][28] Trái ngược với xác định của các nhà sư, chính quyền cũng cho biết người tự thiêu tên Đào Quang Hộ, là người ở tỉnh An Giang.[12][29] Nhiều cơ quan báo chí Việt Nam và quốc tế đã thống nhất dẫn lại theo cái tên này theo báo cáo từ chính quyền.[12][25] Thậm chí, bản tin còn củng cố khẳng định này bằng một buổi phỏng vấn với người được cho là vợ của Đào Quang Hộ[27] và một người khác là anh trai người tự thiêu, cho biết em trai quá cố không phải Phật tử mà chỉ là một người "bị trầm cảm nặng nề về chuyện gia đình, và các nhà sư ở Linh Mụ (Thiên Mụ) đã lợi dụng sự trầm cảm của em trai" để ép phải quyên sinh.[1] Mâu thuẫn chuyện gia đình, cụ thể theo chính quyền, là việc hai vợ chồng đã có xung đột với nhau về một chiếc bình.[27] Tuy nhiên, bản tin không giải thích được tại sao người đàn ông này phải đi một quãng đường dài từ An Giang đến Huế để tự thiêu, cũng như việc tự thiêu lại nhằm vào đúng ngày giỗ đầu của Thích Đôn Hậu, và ngay tại chùa nơi ông trụ trì.[27][6] Lý giải về việc không có bất cứ bức hình nào về người đàn ông được đưa ra, báo chí chính quyền khi đó cho biết Đào Quang Hộ đã đốt hết các bức ảnh của mình trước khi đi đến lựa chọn tự sát.[27]

Biểu tình bắt giữ Thích Trí Tựu

Ngày 22 tháng 5 năm 1993, Đại đức Thích Trí Tựu đã viết đơn xin nhận thi thể người tự thiêu về để nhà chùa làm lễ an táng. Một ngày sau, ngày 23 tháng 5, ông nhận được giấy triệu tập lên Ủy ban nhân dân Huế để làm việc sáng ngày mai. Ông đã một mình đi vào UBND tỉnh và có ba vị sư đi cùng đứng đợi ở bên ngoài. Tại buổi làm việc diễn ra từ 7:30 sáng (GMT+7) ngày 24 tháng 5 năm 1993,[27] chính quyền đã yêu cầu ông ký xác nhận người tự thiêu không phải là Phật tử, và vẫn còn sống. Tuy nhiên, ông đã từ chối rồi đi ra trước trụ sở UBND ngồi tuyệt thực để phản đối lại quyết định của chính quyền địa phương. Ngay lúc này, ông đã bị công an hành hung và đưa trở lại vào trong trước sự chứng kiến của các ba vị sư tại chùa.[6][26] Tin tức về việc Thích Trí Tựu bị cưỡng chế tại cơ quan nhà nước nhanh chóng lan rộng và đến tai các phật tử tại chùa Thiên Mụ. Do lo sợ ông bị công an đánh đập,[6] vào khoảng 9:00 sáng cùng ngày một nhóm phật tử tại chùa Thiên Mụ đã tổ chức biểu tình bằng cách dàn hàng ngang ngồi trên một con đường gần UBND thành phố Huế – nơi ông bị tra hỏi – và tuyệt thực.[25][27] Đông đảo các nhà sư sau đó cũng kéo đến trước trụ sở UBND để biểu tình. Những người biểu tình yêu cầu phải thả thầy Thích Trí Tựu ra thì mới giải tán, còn chính quyền lại yêu cầu các nhà sư giải tán mới thả người.[6]

Ngoài các phật tử, cuộc biểu tình đã nhanh chóng thu hút sự hiếu kỳ từ nhiều người xung quanh rồi tụ tập lại thành một đám đông lớn, làm tắc nghẽn giao thông ở mọi hướng của vòng xoay giao thông chính trong thành phố và làm tắc nghẽn cả một đoạn Quốc lộ 1.[1][30] Trong thời gian này, Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Vũ Quang cho biết, các "vị sư xấu" ở Huế đang cố vẽ chân dung ông Nguyễn Ngọc Dũng như một người tử đạo. Ông cũng nói thêm, "các nhà sư này đang cố gắng phá hủy khối đoàn kết của Phật giáo Việt Nam" và xem "hành động của chư Tăng tại Huế là vi phạm pháp luật".[25] Chỉ trong vòng vài giờ, đã có tới 40.000 Phật tử, sinh viên cùng các tầng lớp nhân dân đã tập trung biểu tình, phản đối các chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền.[26][27] Với số lượng đông đảo người tham gia biểu tình, đây được xem là biểu tình có quy mô lớn nhất kể từ ngày Việt Nam thống nhất.[28]

Khi một chiếc xe jeep của chính quyền chở Hòa thượng Thích Trí Tựu từ UBND ra, đám đông đã lao đến bao vây lại chiếc xe.[1] Dựa trên đoạn băng ghi lại cuộc biểu tình của cảnh sát, chiếc xe đã quay mặt lại với hướng cầu Phú Xuân – nơi dẫn đến chùa Thiên Mụ – và hướng về phía Nhà tù Thừa Phú cách trụ sở UBND không xa. Điều này chứng tỏ Thích Trí Tựu thực sự bị bắt giam, khác với lời của chính quyền nói họ chỉ đưa về nhà chùa.[31] Các nguồn tin Phật giáo cho biết những nhà sư có mặt hôm đó đã nhìn thấy Thích Trí Tựu bất tỉnh ở phía sau xe jeep và nghi ngờ thầy mình bị thương.[1] Một số nhà sư đã chặn đường xe đi bằng chắn trước mũi xe hoặc trèo lên hẳn mui xe, liên tục.yêu cầu thả thầy mình ra.[31] Những người trong vòng tụ tập ấy sau đó mở cửa xe và đưa Hòa thượng Thích Trí Tựu, lúc này có vẻ như đã bất tỉnh, ra ngoài và lên một chiếc xích lô, băng qua đám đông đưa về chùa Thiên Mụ.[1] Nhà sư trẻ Thích Hải Thịnh vẫn tiếp tục đứng trên xe jeep, vừa vẫy tay vừa nói chuyện với đám đông, hô lên khẩu hiệu "Đàn áp Phật Giáo" trong sự hưởng ứng của những người đứng dưới xe. Một lúc sau, Thích Hải Thịnh đã bị người của chính quyền lôi xuống và đưa đi.[27][24] Chiếc xe jeep đã bị người dân lật lại và đốt cháy. Một xe cứu hỏa nhanh chóng được điều đến hiện trường trước khi đám đông đốt xe nhưng đã không kịp thời ngăn chặn ngọn lửa để giữ lại chiếc xe.[1] Theo The New York Times, việc người biểu tình lật xe của chính phủ là một trong số các hành động chống đối hiếm thấy tại Việt Nam.[32] Quá trình này đã khiến cho giao thông bị tê liệt trong 3 giờ đồng hồ.[23] Vào khoảng 2:30 chiều, cảnh sát và quân đội đã xông vào đám đông và sử dụng vòi rồng, dùi cui điện, và bình xịt hơi cay tấn công vào những người tụ tập.[26][27] Cuộc biểu tình chỉ kết thúc sau hơn 5 tiếng đồng hồ diễn ra, khi các nhà sư từ chùa Thiên Mụ thông báo thầy Thích Trí Tựu đã về chùa một cách an toàn.[31]

Đã có nhiều báo cáo trái ngược nhau về vụ biểu tình. Các nhà chức trách Việt Nam đã cho rằng Hòa thượng Thích Trí Tựu cùng các tu sĩ Phật giáo khác đã kích động đám đông dẫn đến xô xát bạo lực khiến cho một chiếc xe chính phủ bị lật và nhiều cảnh sát bị thương. Trong khi đó, Thích Trí Tựu lại cho rằng đám đông chỉ đang đáp trả việc lực lượng vũ trang Việt Nam đã sử dụng hơi cay, vòi rồng tấn công vào họ. Đến khi thông tin Hòa thượng Tựu trở về chùa thì vụ biểu tình mới nhanh chóng lắng xuống.[12]

Hệ quả

Bắt giữ và xét xử

Sau khi vụ biểu tình tại Huế diễn ra, cảnh sát đã lần lượt bắt giữ sáu nhà sư, trong đó có Hòa thượng Thích Trí Tựu. Theo nguồn tin Phật giáo, ít nhất 50 người khác cũng bị cho là có liên quan đến cuộc đối đầu.[1] Ngay sau đó, Thích Trí Tựu đã bị bắt giữ vì tội danh kích động biểu tình.[1][32] Thích Hải Tạng và Thích Hải Thịnh cũng được bắt giữ cùng lúc đó tại chùa Thiên Mụ,[1] hai ông đã bị chính quyền yêu cầu giữ lại y phục tu sĩ khi bị bắt giữ. Những người bị bắt hầu hết đều là thành viên của GHPGVNTN.[12] Đến ngày 10 tháng 6, chính quyền xác nhận việc bắt giữ ba nhà sư trên cùng chín cá nhân "cực đoan" khác vì vai trò của họ trong việc phá hủy chiếc xe jeep. Vào ngày 19 tháng 7 cùng năm, Hòa thượng Thích Hải Chánh và hai sa di nam đã bị bắt vì tội “xúi giục người khác gây rối trật tự công cộng và phá hoại tài sản nhà nước" trong cuộc biểu tình.[1] Đến ngày 15 tháng 11 năm 1993, Thích Trí Tựu và Thích Hải Tạng đã nhận mức án 4 năm tù, trong khi đó, Thích Hải Thịnh và Thích Hải Chánh nhận mức án 3 năm tù.[32]

Trong vòng 5 tháng trước phiên tòa xét xử, nhiều nguồn tin trong nước liên tục được tung ra nhằm bôi nhọ uy tín những nhà sư bị bắt ở Huế.[6] Vũ Quang, nguyên Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ, đã mô tả các bị cáo là "những kẻ dối trá đánh mất uy tín trong mắt nhân dân bằng cách sử dụng lời khai gian, giả mạo và bạo lực", ngụ ý rằng họ phải chịu trách nhiệm về cái chết của người đàn ông tự thiêu tại chùa. Vũ Quang cũng nói với các phóng viên rằng chính phủ đang điều tra vụ tự thiêu ở chùa Linh Mụ là "giết người hay tự sát" và nói rằng Thích Trí Tựu "phải chịu trách nhiệm về cái chết trên vì nó xảy ra ngay tại chùa của ông".[1]

Vào ngày 15 tháng 11 năm 1993, một phiên tòa kín xét xử các bị cáo trong vụ biểu tình đã diễn ra trong vòng một ngày tại Huế. Hòa thượng Thích Trí Tựu, người bị công an triệu tập lên thẩm vấn và bất tỉnh trên xe jeep, bị buộc tội là "thủ lĩnh của cuộc bạo loạn". Ông phải chịu án bốn năm tù giam – ngang với án tù của một người phá hoại chiếc xe tên Nguyễn Văn Minh, nhưng người này còn phải chịu thêm phí phạt khoảng 22,000 USD.[1] Thích Hải Tạng bị kết án bốn năm tù do kích động các thành viên trong đám đông chặn xe lại, lật ngược xe lên và đốt nó. Hai nhà sư Thích Hải Thịnh và Thích Hải Chánh nhận án ba năm tù với nguyên do tương tự, đặc biệt là Thích Hải Thịnh bị cáo buộc đã đứng lên trên mui xe jeep của UBND Huế và "phỉ báng" giới cầm quyền.[12] Bốn giáo dân còn lại thì bị kết án tù từ 6 đến 12 tháng vì tội gây rối trật tự công cộng. Riêng hai sa di bị bắt cùng với Thích Hải Chánh đã không phải tham dự phiên xét xử mà được chính quyền cho tại ngoại.[1] Đáng chú ý tại phiên tòa này, gia đình Phật tử tự thiêu tại chùa Thiên Mụ, tên Nguyễn Ngọc Dũng đã lần đầu xuất hiện và công khai sự thật về danh tính người thân của mình.[27]

Cuối tháng 1 năm 1994, Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng, Thích Hải Thịnh và Thích Hải Chánh bị chuyển nơi cải tạo từ trại giam Thừa Phú ở Huế về trại giam Ba Sao ở Phủ Lý, tỉnh Nam Hà cũ. Vào cuối tháng 4 cùng năm, bốn nhà sư quyết định tổ chức tuyệt thực để kháng cáo bản án mà chính quyền đưa ra. Lãnh đạo trại giam sau đó đã chuyển họ từ khu A dành cho tù nhân chính trị sang khu B dành cho tội phạm thông thường. Kể từ cuộc tuyệt thực tháng 4 năm 1994, báo cáo của HRW vào tháng 3 năm 1995 cho biết Thích Hải Đường đang ở trong tình trạng sức khỏe yếu và bị bệnh về dạ dày.[1]

Các sự vụ liên quan

Biểu tình ở chùa Sơn Linh 1993

Hai tháng sau cuộc biểu tình lớn ở Huế, một cuộc bắt giữ và biểu tình khác giữa các nhà sư với chính quyền đã diễn ra ở chùa Sơn Linh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vào năm 1982, sư Thích Hạnh Đức đã được bổ nhiệm làm trụ trì chùa Sơn Linh bởi GHPGVN. Đến tháng 7 năm 1992, Mặt trận Tổ quốc và Ủy ban nhân dân tỉnh Vũng Tàu ban hành lệnh trục xuất Thích Hạnh Đức cùng các nhà sư khác tại chùa, sau khi ông công khai đọc bản thỉnh nguyện của Thích Huyền Quang, cũng như ủng hộ việc khôi phục GHPGVNTN.[1] Ông còn bị cáo buộc tổ chức một vụ biểu tình chống chính phủ hồi đầu tháng 6 năm 1993.[12] Vào ngầy 23 tháng 2 năm 1993, ông chính thức bị trục xuất khỏi GHPGVN vì "vi phạm các nguyên tắc của Phật giáo Việt Nam". Xung đột chính xảy ra vào ngày 9 tháng 7 năm 1993, khi chính quyền vào tận nhà chùa để thực hiện lệnh trục xuất, sau hành động ủng hộ biểu tình Huế của Thích Hạnh Đức và việc ông thách thức tính hợp lệ của lệnh trục xuất trên.[1][12]

Theo chính quyền, những người ủng hộ Thích Hạnh Đức đã bắt một người của chính quyền làm con tin không cho đưa thầy đi. Vũ Quang cũng cáo buộc đám đông đã tấn công chính quyền và chùa tàng trữ vũ khí, chất nổ trái phép.[1] Nhưng theo GHPGVNTN, cảnh sát đã bị chèn ép giữa đám đông tụ tập quá lớn tại chùa. Sau đó, một cuộc xô xát đã xảy ra khi lực lượng an ninh cố gắng xông vào chùa bằng xe tăng, sử dụng hơi cay và đánh đập người biểu tình bằng dùi cui. Theo Giáo hội Thống nhất, đám đông hoàn toàn bất bạo động và chỉ phản vệ chính đáng bằng việc ném đá vào lực lượng an ninh đang tấn công. 100 nhà sư và những người ủng hộ Thích Hạnh Đức đã bị bắt giữ trong cuộc đối đầu; hầu hết những người bị bắt đều lập tức thả ra ngoại trừ Thích Hạnh Đức, sư Thích Thiện Thọ và bốn năm người ủng hộ bị cho là sở hữu kho vũ khí gồm 5 kg thuốc nổ, gậy và dao.[12] Sau cùng, Thích Hạnh Đức bị kết án ba năm tù giam do tội "chống người thi hành công vụ" với cáo buộc "hoạt động trái pháp luật" và "phát tán tài liệu thù địch với chính quyền xã hội chủ nghĩa". Thích Thiện Thọ phải chịu án 18 tháng quản thức tại gia với tội danh tương tự.[1][12]

Gia tăng căng thẳng trong 1994

Trong năm 1994, các vụ biểu tình và tự thiêu chống lại chính sách tôn giáo của chính quyền ngày một diễn ra nhiều hơn trong số các thành viên thuộc GHPGVNTN và cả GHPGVN. Nhiều nhà sư, lãnh đạo cấp cao trong Giáo hội Phật giáo Thống nhất đã bị bắt giữ và quản thúc tại gia như một nước đi của chính quyền nhằm dẹp bỏ hoàn toàn tổ chức. Nổi bật trong số này có vụ bắt giữ Thích Huyền Quang vào ngày 29 tháng 12 năm 1994 và Thích Quảng Độ vào ngày 5 tháng 1 năm 1995. Cùng với những vụ bắt giữ lớn này sẽ là vụ bắt giữ nhắm vào những nhà sư khác trong giáo hội, như việc bắt giam 5 nhà sư vì có ý định quyên góp từ thiện cho trận lũ lớn trên sông Cửu Long, dưới danh nghĩa GHVGVNTN.[1]

Theo một thống kê của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) vào năm 1995, có ít nhất hai chục Phật tử đang ở trong tình trạng bị giam giữ tại Việt Nam kể từ 1992 đến thời điểm báo cáo được xuất bản; 5 người trong số này không rõ tung tích. Đáng chú ý, những nhà sư bị bắt không được chính quyền xem như là người của tôn giáo; họ bị cáo buộc bằng tên gọi thế tục thay vì tên gọi tôn giáo, và họ cũng bị buộc phải mặc thường phục khi đến tòa án thay vì mặc áo cà sa. Những vụ bắt bớ các nhà sư đều được hợp thức hóa qua điều 70 của Hiến pháp Việt Nam năm 1992; điểm b, c trong điều 81 của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1981 và điều 5 trong Nghị định số 69 của Hội đồng Bộ trưởng; cùng với đó là các phiên tòa xét xử công khai nhà sư, bất chấp việc hành động này đi ngược lại những điều nằm trong Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam đã ký và thông qua vào năm 1982.[1]

Miền Nam Việt Nam

Vào giữa trưa ngày 28 tháng 5 năm 1994, nhà sư Thích Huệ Thâu ở khu vực Ba Càng thuộc Đồng bằng sông Cửu Long đã tự thiêu trong tư thế xếp bằng ở một con đê phía sau chùa. Theo người thân của nhà sư, ông đã quyết định đến với cái chết do không tìm thấy "sự độc lập". Trước đó, nhà sư Thích Huệ Thâu được cho là đã bị cấm hành đạo trong số các ngôi chùa ở Vĩnh Long do ông là thành viên của GHPGVNTN, trong khi các ngôi chùa lúc này do GHPGVN quản lý. Do vậy, ông đã tự dựng một ngôi chùa nhỏ nhưng sau đó đã bị chính quyền Việt Nam dỡ bỏ và buộc tội ông vào hoạt động "mê tín".[18] Khoảng 3 ngày trước khi tự tử, ông cũng đã dẫn đầu một nhóm khoảng 47 Tăng Ni mang theo cờ Phật giáo biểu tình ôn hòa đến trụ sở của UBND tỉnh Vĩnh Long để yêu cầu về quyền tự do tôn giáo.[33]

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 8 cùng năm, một cuộc biểu tình của các Phật tử đã diễn ra với sự lãnh đạo của thành viên GHPGVNTN Thích Giác Nguyên, trụ trì chùa Long An ở tỉnh Trà Vinh. Những nhà sư đã tụ tập trước trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để phản đối chính quyền can dự vào các vấn đề trong nội bộ nhà chùa. Kết quả, ngày 7 tháng 8 cùng năm Thích Giác Nguyên đã bị bắt giữ tại một ngôi chùa trong thành phố và đến ngày 18 tháng 8 chính quyền xác nhận việc giam giữ và thẩm vấn ông.[1] Trả lời với hãng thông tấn Agence France-Presse, một phát ngôn viên của chính phủ cho biết vụ việc không liên quan đến tôn giáo và người này đã bị bắt vì hành vi "bất đồng chính kiến".[18]

Vào tháng 10 năm 1994, Thích Quảng Độ cùng Thích Đức Nhuận đã chỉ đạo nhiều nhà sư khác bao gồm Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, Thích Hồng Ngọc, Thích Nguyên Lý... thành lập "Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp" và "Ban công tác từ thiện xã hội – GHPGVNTN".[34] Đến ngày 6 tháng 11, các cơ quan tổ chức này đã đại diện GHPGVNTN tổ chức cứu trợ lũ lụt tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.[35] Tuy nhiên, sau đó, chính quyền Việt Nam đã gọi đây là sự "lợi dụng" nhằm phô trương và công khai các hoạt động của GHPGVNTN.[34] Trong đợt cứu trợ, tổng cộng đã có khoảng 150 Tăng Ni, Phật tử tham gia cùng với việc treo cờ Phật giáo, giăng băng rôn "GHPGVNTN".[34][36] Tuy nhiên, ngay sau đó, Thích Quảng Độ, Thích Trí Lực cùng nhiều tín đồ đã bị bắt giữ,[36][37] hàng cứu trợ cũng bị tịch thu toàn bộ.[38] Ba hôm sau vụ bắt giữ, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tuyên bố các báo cáo về việc bắt giữ nhóm Phật giáo là "sai sự thật" và phủ nhận mọi nỗ lực cứu trợ của GHPGVNTN, đồng thời, khẳng định mọi nỗ lực cứu trợ đều do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện.[1] Đến ngày 15 tháng 8 năm 1995, trong phiên xét xử kín tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiều cá nhân đã bị xử phạt với tội danh "phá hoại chính sách đoàn kết" và "lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để xâm phạm quyền lợi Nhà nước".[35][36] Trong số báo ngày 12 tháng 11 của Sài Gòn Giải Phóng đã cáo buộc GHPGVNTN "nói dối nhân dân" về việc có ý định cứu trợ lũ lụt mà không được nhà nước cho phép, và gọi ý định thực tế của giáo hội là "gieo rắc sự chia rẽ và bất ổn trong xã hội Việt Nam".[1]

Huế

Vào ngày 27 tháng 11, một nhóm các nữ tu và nhà sư đã phản đối việc mở một trường tôn giáo tại chùa Báo Quốc, Huế. Nhóm các nhà sư thuộc GHPGVN đã mang thỉnh nguyện thư phản đối chính sách tuyển sinh phân biệt đối xử của trường và chính sách tuyên truyền chính trị trong chương trình giảng dạy. Chính phủ Việt Nam tuyên bố những người biểu tình đã xông vào chùa Báo Quốc và làm bị thương những người tại hiện trường. Một nguồn tin khác cho biết đã xảy ra xô xát dữ dội giữa các nhà sư tham dự lễ khai trường và những người phản đối. Hai người trong nhóm nhà sư phản đối đã ném đá vào phía còn lại, được cho là theo sự xúi gục của cảnh sát chìm cải trang trong đám đông hỗn loạn. Thay vì tập trung vào nội dung chính của biểu tình, chính quyền đã cố gắng chuyển sự chú ý sang vụ ẩu đả và tô vẽ sự việc như cuộc tranh chấp giữa những tín đồ Phật giáo trong tỉnh. Một phóng sự ghi lại toàn cảnh đánh nhau đã được phát trên Đài Truyền hình Việt Nam, và hai nhà sư trẻ Thích Thái Hưng và Thích Hạnh Đức sau đó bị bắt vì là người ném đá trong cuộc biểu tình.[1]

Bắt bớ Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ

Từ năm 1992 đến 1994, Hòa thượng Thích Huyền Quang đã công bố liên tiếp ít nhất bảy thư thỉnh nguyện kêu gọi khôi phục Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Vì uy tín của ông trong giới Phật giáo, chính quyền bắt đầu tìm mọi cách để cô lập và hủy bỏ tư cách lãnh đạo của ông. Ngày 4 tháng 8 năm 1993, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã có công văn cấm Thích Huyền Quang nhân danh GHPGVNTN tiến hành mọi hoạt động và yêu cầu cho ông phải từ bỏ con dấu của Pháp viện được trao tại lễ tang Thích Đôn Hậu. Hai ngày sau đó, Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin rằng các sư trụ trì chùa của GHPGVN đã tụ họp ở Quảng Ngãi và Hà Nội để ủng hộ lệnh cấm trên. Cuộc đàn áp còn diễn ra tới 1994 khi căng thẳng leo thang, đặc biệt là sau cuộc biểu tình ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong một bức thư của tăng thống GHPGVNTN, ông cho biết bản thân vẫn bị giam giữ nghiêm ngặt tại chùa Hội Phước, Quảng Ngãi như 13 năm trước và không được tiếp cận bất kỳ du khách nào. Sau vụ tuyệt thực của Thích Huyền Quang phản đối giam giữ các nhà sư tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 12 chính quyền đã chuyển ông đến một ngôi chùa ở làng biệt lập trong tỉnh và ngăn cho nhà sư có liên lạc nào với thế giới bên ngoài.[1]

Vào ngày 19 tháng 8 năm 1994, Hòa thượng Thích Quảng Độ, lúc này vừa lên đảm nhiệm chức Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo của GHPGVNTN, đã có thư gửi đến Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười sau các cuộc đàn áp Phật giáo và quyết định kỷ niệm một ngày Quốc tang tại Việt Nam dành cho Tổng Bí thư Đảng Lao động Triều Tiên Kim Nhật Thành của Chính phủ Việt Nam.[39] Trong lá thư, ông đã chất vấn việc chính quyền tôn vinh lãnh dạo Triều Tiên thay vì các nhà sư tử đạo, kèm theo đó là một bài phê bình dài 44 trang phê phán chủ nghĩa cộng sản cũng như chính sách đàn áp Phật giáo của Chính phủ.[1] Trong lá thư đã nêu chi tiết các biến cố Phật giáo kéo dài từ năm 1945. Một bản sao của lá thư đã được gửi bí mật cho Phát ngôn viên Quốc tế của GHPGVNTN Võ Văn Ái tại Paris, Pháp. Thích Quảng Độ đã yêu cầu ông Ái công khai lá thư nếu 6 tháng kể từ khi gửi mà chính phủ Việt Nam không có phản hồi.[38]

Sau vụ giam giữ các nhà sư trong vụ từ thiện lũ lụt tháng 11 năm 1994, Thích Quảng Độ đã lên tiếng phản đối dẫn đến việc chùa Tánh Minh nơi ông trụ trì ở Thành phố Hồ Chí Minh bị tăng cường giám sát. Thái độ bất bình của Thích Quảng Độ qua hai lần trên cũng dẫn đến vụ bắt giữ ông vào ngày 4 tháng 1 năm 1995 vì tội "kích động gây rối" và "vi phạm pháp luật Việt Nam", dù trước đó ông đang bị điều tra về hành vi "gây rối trật tự nơi công cộng".[1] Ông cùng với năm nhà sư khác trong đoàn cứu trợ lũ lụt bị kết án 5 năm tù giam theo tội "phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước", tuy nhiên Thích Quảng Độ đã được ân xá sớm vào năm 1998 vì áp lực ngoại giao từ phía Mỹ yêu cầu Việt Nam trả tự do cho nhà sư này.[40]

Phản ứng

Chính quyền Việt Nam

Chỉ sau 2 tháng kể từ khi cuộc biểu tình diễn ra, vào ngày 23 tháng 7 năm 1993, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ký quyết định từ Văn phòng Chính phủ ban hành Chỉ thị 379/TTg về các hoạt động tôn giáo. Chỉ thị yêu cầu chính quyền địa phương cho phép các nơi thờ tự tôn giáo được tu sửa, đồng thời, trao trả một số cơ sở tôn giáo mà Nhà nước đã "mượn" nếu "sử dụng không đúng". Đồng thời, chỉ thị cũng yêu cầu cho phép in ấn kinh sách tôn giáo, đối với các kinh sách nước ngoài cần phải được kiểm tra "nhanh gọn". Ngoài ra, yêu cầu toàn bộ UBND tỉnh, thành phố và Ban tôn giáo Chính phủ phải gửi báo cáo tình hình tôn giáo mỗi quý về cho Văn phòng Chính phủ. Đồng thời, cũng cảnh báo về việc cấm "lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống Chính quyền, gây chia rẽ mối đoàn kết dân tộc".[41] Trước đó hôm 4 tháng 6, sau khi cuộc biểu tình diễn ra hơn một tuần, Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành Nghị định phân bổ quyền hạn, nhiệm vụ cho Ban Tôn giáo của Chính phủ.[42] Theo Tampa Bay Times, trong khoảng thời gian sau vụ biểu tình, cảnh sát địa phương cũng thường xuyên mặc thường phục theo dõi các nhà sư và du khách bên trong khuôn viên các chùa. Chính quyền địa phương cũng cố gắng ngăn cản việc phóng viên phỏng vấn các nhà sư tại đây.[23]

Trong giai đoạn 1993–1994, chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục các chiến dịch đàn áp mạnh mẽ Phật giáo, đặc biệt là phá hủy các bảng ghi có chứa "Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất" trong khuôn viên các cơ sở thờ tự. Thậm chí vào năm 1995, công an địa phương đã chặn xe một số tăng ni khi hoạt động từ thiện ở Đồng bằng sông Cửu Long và tịch thu toàn bộ hàng cứu trợ. Thích Quảng Độ ngay sau đó cũng đã bị bắt giữ và bị tuyên phạt 5 năm tù và 5 năm quản chế với tội danh "phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc" và "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước và nhân dân".[36][38] Tuy nhiên, đến năm 1998, ông đã được thả tự do. Việc trao trả tự do của ông theo báo Công an nhân dân là vì ông đã viết thư "ăn năn hối cải" trong đợt ân xá Quốc khánh.[36][43]

Vào đầu tháng 11 năm 1994, Ủy ban Nhân quyền Việt Nam có trụ sở tại Pháp – một tổ chức vận động dân chủ liên minh với GHPGVNTN đã khẳng định việc chính quyền đã bắt giữ thêm 5 nhà sư và giáo dân. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam đã phủ nhận các cáo buộc. Trả lời với phóng viên quốc tế, nhiều nhà sư cho biết họ đã bị giám sát liên tục, không được viết thư cũng như các đường dây diện thoại quốc tế bị cắt sóng. Tại hai trong số các ngôi chùa đã diễn ra các cuộc biểu tình trước đó, nhiều nhà sư khẳng định đã không được phép nói chuyện với các nhà báo quốc tế mà chưa được sự báo trước, và ngay lập tức phải yêu cầu họ rời khỏi đó. Một thông dịch viên cho tờ báo The Christian Science Monitor cũng đã bị cảnh sát yêu cầu không được dẫn phóng viên tờ báo này đến gặp các nhà sư thuộc GHPGVNTN.[18] Sang đầu năm 1995, chính phủ Việt Nam cũng đã khẳng định việc các tu sĩ Phật giáo đã lợi dụng chính thức tự do tôn giáo của Chính phủ để "thực hiện chính trị", gây rối để phá hoại sự đoàn kết của đất nước. Chính phủ Việt Nam cũng đã bắt đầu tiếp nhận danh sách câu hỏi từ phía The Christian Science Monitor nhưng sau đó lại cho biết từ chối trả lời. Chuyển tiếp lời cảnh báo từ Bộ Nội vụ Việt Nam, một nhân viên trong trung tâm báo chí tại Hà Nội cũng khẳng định, sẽ bị bắt giữ khi "thực hiện các hoạt động báo chí ở Huế".[44]

Phóng sự Tiếng chuông chùa

Toàn bộ cuộc biểu tình tại Huế ngày 24 tháng 5 năm 1993 đã được quay trọn lại trong một băng hình từ phía cảnh sát nhằm thu làm bằng chứng chống lại các nhà sư tham gia vào biểu tình ngày hôm đó.[6] Nhiều máy quay phim đã được đặt sẵn để thu lại diễn biến của biểu tình từ nhiều góc độ khác nhau. Âm thanh của cuốn băng bị chính quyền cố tình làm tệ đi và nhiều lúc không thể nghe được, đặc biệt là cảnh các nhà sư phát biểu trong đám đông biểu tình.[31]

Đối với các video bạo loạn trong cuộc biểu tình trước đó, chính quyền địa phương đã sử dụng nó như mục đích tuyên truyền chính trị khi cho rằng những người theo GHPGVNTN là những kẻ kích động. Dựa vào đoạn băng này, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Mai đã trả lời trên sóng phát thanh cho rằng, "nhà sư nhảy lên nóc xe Jeep [...] la hét, và đó không phải là một nhà sư Việt Nam trong mắt người dân Việt Nam". Nói thêm, "những người theo Phật giáo đi tranh giành quyền lực không phải là một Phật tử". Chính quyền địa phương cũng cáo buộc GHPGVNTN đang có ý định phục hồi chính quyền Việt Nam Cộng hòa.[18] Vào tháng 12 năm 1993, Việt Nam đã gửi cho Tổ chức Ân xá Quốc tế một video đã chỉnh sửa quay lại hình ảnh cuộc biểu ở Huế để khẳng định những tu sĩ này đang gây rối trật tự công cộng và vi phạm pháp luật Việt Nam.[12] Cuốn băng cũng được chính quyền gửi và trình chiếu cho các tổ chức quốc tế lẫn các đại sứ quán của các nước.[cần dẫn nguồn] Năm 2003, phóng sự về biểu tình ở Huế đã được chiếu tại Liên hoan phim Nhân quyền Thế giới tổ chức ở Séc.[45]

Trong vụ biểu tình Phật giáo ở Huế, lần đầu tiên và duy nhất chính quyền đã thử nghiệm việc cho phát sóng đoạn băng cuộc biểu tình lên kênh Đài Truyền hình quốc gia để truyền tải thái độ thù địch một cách rộng rãi tới quần chúng. Những hình ảnh trong buổi phát sóng đó được chủ đích khắc họa hình ảnh những nhà sư "cực đoan" trong cuộc biểu tình. Tuy nhiên, lần thử nghiệm này đã không đem lại hiệu quả mà ngược lại còn phản tác dụng nghiêm trọng, khi đã có thêm nhiều công chúng đã bảy tỏ thái độ thiện cảm với vấn đề Phật giáo này.[20]

Nhiều báo cáo về sự việc cũng đã trích dẫn tình tiết từ đoạn băng để miêu tả lại tình tiết cuộc biểu tình.[1] Trong một bài bình luận về băng video ghi lại cuộc biểu tình của Ủy ban Hạ viện Hoa Kỳ về Tiểu ban Quan hệ Quốc tế về Châu Á và Thái Bình Dương, đoạn băng đã bị xem như là một sản phẩm mang tính định hướng của chính quyền, và đã được biên tập kỹ lưỡng để cho thấy những hình ảnh xấu về các nhà sư, mà theo ủy ban chúng vốn chỉ là một phần của sự thật.[27] Khác với khẳng định từ chính phủ Việt Nam, ủy ban đã đưa ra nhận định rằng cuộc biểu tình ở Huế năm 1993 là một biểu tình ôn hòa, cũng như các nhà sư hoàn toàn không có thái độ kích động hoặc cổ vũ bạo lực xuyên suốt sự kiện. Vì Huế là trung tâm Phật giáo Việt Nam và các nhà sư tại đây được người dân đặc biệt tôn trọng, đám đông chỉ cho thấy đang cố gắng bảo vệ các nhà sư khỏi bắt bớ của chính quyền. Bằng chứng là nhiều người xuất hiện trong đoạn băng đã cố gắng tránh nắng nóng cho những nhà sư tuyệt thực, quạt mát và tiếp nước cho họ. Ngay cả cảnh sát cũng ngần ngại trong việc sử dụng vũ lực chống lại các nhà sư. Xét trên số lượng người có mặt ngày hôm đó, nếu các nhà sư thực sự có thái độ kích động bạo lực thì có thể một cuộc bạo động mang tính toàn diện đã diễn ra tại Huế.[24]

Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Trong một bài phỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam được đăng tải trên báo Quân đội nhân dân, Hòa thượng Thích Thanh Tứ cho rằng, bản thân GHPGVN "tôn trọng quá khứ lịch sử" GHPGVNTN và khẳng định tổ chức giáo hội này đã gia nhập và trở thành GHPGVN từ năm 1981 và việc một số tu sĩ Phật giáo sử dụng cái tên GHPGVNTN trong thời gian sau đó là "mạo xưng" và làm chia rẽ Phật giáo và tổn hại đến dân tộc Việt Nam.[34] Theo các nhà sư Phật giáo độc lập và người dân Huế, các tu sĩ tại chùa Thiên Mụ được cho là không nhận được nhiều sự ủng hộ của quần chúng trong giai đoạn diễn ra cuộc biểu tình.[23]

Truyền thông Việt Nam

Trên báo Nhân Dân, một cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho rằng đến năm 1965, GHPGVNTN đã không còn tồn tại và việc Thích Quảng Độ tiếp tục dẫn dắt tổ chức này là một trong các "chiêu bài để che đậy các hoạt động chính trị". Bình luận trước tác phẩm "Nhận định về những sai lầm tai hại của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật giáo Việt Nam" của Thích Quảng Độ đăng tải trên tập san Quê mẹ thuộc Phòng thông tin Phật giáo quốc tế, tờ báo cũng cho đây là những "nội dung vu khống" và "phản ánh trí tuệ thấp kém của tác giả".[46] Dẫn lời trên Tampa Bay Times, một giáo sư kiêm Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Ngoại ngữ Hà Nội đã cho biết, chính phủ Việt Nam đã bắt đầu cởi mở hơn đối với tôn giáo khi cho phép góp tiền xây dựng và tu sửa các cơ sở tôn giáo. Ông này cũng cho rằng, "chính phủ đã học được cách chung sống hòa bình hơn với tôn giáo". Một trụ trì tại Huế cũng có nhận định tương tự, người này cho biết, ngôi chùa đã được phép tân trang mà không có sự can thiệp của Chính phủ, đồng thời, số lượng Phật tử đến chùa cũng gia tăng với việc "đứng ngoài chính trị".[23]

Trong một bài báo đăng tải vào tháng 8 năm 1999, Hoàng Ngọc Vĩnh của tạp chí Sông Hương đã so sánh vụ biểu tình Phật giáo 1993 với biến cố Phật giáo 30 năm về trước, đều làm "náo động cả nước và thế giới". Bài viết lưu ý tuy có sự liên quan nhưng không thể đánh đồng tính chất hai vụ việc với nhau, song coi đó là bằng chứng cho vị trí của Phật giáo trong lòng người dân Huế xuyên suốt các giai đoạn lịch sử khác nhau.[47]

Quốc tế

Truyền thông quốc tế

Tác giả Philip Shenon bình luận trên The New York Times cho rằng, sự tự thiêu mở màn cho các phong trào biểu tình diễn ra như một sự "nhắc nhở" đối với Chính phủ Việt Nam khi công khai đi theo chủ nghĩa vô thần và bắt giữ những người bất đồng chính kiến. Huế đồng thời cũng trở thành nơi đám đông tập trung trái phép lớn nhất tại Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc.[25] Tiến sĩ Robert Topmiller bình luận trên BBC News vào năm 2007, việc Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, phần nào đó đã giúp cho GHPGVNTN giảm thiểu các hạn chế lên các tổ chức tôn giáo.[48] Trong khi đó tờ báo The Christian Science Monitor lại cho rằng, điều mà chính phủ Việt Nam quan ngại nhất đối với GHPGVNTN chính là về vấn đề thay đổi chính trị khi tổ chức này liên tục đòi các quyền về tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do hội họp...và đồng thời chấm dứt sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Việt Nam.[18] Cũng dẫn lời trên trên The Christian Science Monitor, nhiều nhà quan sát chính trị Việt Nam và quốc tế đã cho rằng GHPGVNTN đang cố gắng lợi dụng sự bất mãn của dân chúng và những mối bận tâm trong nội bộ ĐCSVN.[44]

Trái ngược với sự tự do trong việc đưa tin Biến cố Phật giáo 1963, với vụ biểu tình này các nhà báo và phóng viên phương Tây đã bị cấm đi vào Huế để tác nghiệp. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Malcolm Browne, người từng đưa tin về vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Mai cho biết những người ngoại quốc đến Việt Nam để bày tỏ quan điểm về nhân quyền tại Việt Nam đều "không được chào đón".[49] Trước khi vụ biểu tình xảy ra, không có một nhà báo quốc tế nào xuất hiện tại Huế; các cơ quan tin tức và thông tấn lớn cũng không đặt trụ sở tại đây; và tất cả phim, ảnh chụp vào ngày xảy ra biểu tình đều bị công an địa phương tịch thu một cách có hệ thống.[27]

Tổ chức, chính phủ nước ngoài

Nhiều thành viên trong Thượng và Hạ viện Hoa Kỳ đã bày tỏ sự ủng hộ đến các nhà sư bất đồng chính kiến và đưa ra các cảnh báo về việc tố tụng hình sự các nhà sư trong cuộc biểu tình sẽ ảnh hưởng đến việc bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Trong khi đó, Thượng nghị sĩ William Warren Bradley của Đảng Dân chủ đã cho biết bản thân đã gửi thư lên Ngoại trưởng Warren Christopher về vấn đề bắt giữ các tu sĩ. Đồng thời, ông cũng đưa ra tuyên bố, việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước còn phụ thuộc vào nhân quyền tại nước này.[32] Trước việc chính phủ Việt Nam đàn áp Phật giáo trong nước, nhiều cuộc biểu tình khác cũng đã diễn ra trên thế giới.[37] Nhiều nhóm ủng hộ dân chủ ở Hoa Kỳ cũng đã kêu gọi chính quyền Clinton hoãn việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam cho đến khi nước này tôn trọng nhân quyền.[23] Sau khi Thích Trí Lực bị bắt giữ khi đang đại diện GHPGVNTN cứu trợ lũ lụt, Tổ chức Ân xá Quốc tế đã xem ông như một tù nhân lương tâm, đồng thời Nghị viện châu Âu cũng đã thông qua nghị quyết kêu gọi Chính phủ Việt Nam trao trả tự do cho nhiều tu sĩ của giáo hội sau khi bị kết án.[37]

Theo một thành viên của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền tại Châu Á Dinah PoKempner, người này cho rằng, nhiều giáo sĩ đã thực hiện các vụ biểu tình, đòi quyền tự do khi có cảm giác thời điểm này là phù hợp trong bối cảnh chính phủ đang "tự do hóa nền kinh tế".[18] Trong báo cáo tháng 2 năm 1995 của Tổ chức Ân xá Quốc tế đã cho biết tổng cộng 23 nhà sư đã bị chính phủ Việt Nam bắt giữ từ cuối tháng 10 năm 1994 và khẳng định đây là "sự đàn áp liên tục đối với Phật tử Việt Nam". Từ cuối năm 1970, ít nhất 36 Phật tử đã bị Chính quyền Việt Nam bắt giữ, theo tổ chức này công bố.[44] Đến ngày 1 tháng 10 năm 2003, Tổ chức Ân xá Quốc tế đã kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho các tù nhân lương tâm bao gồm Thích Huyền Quang bị quản thúc tại nhà ở độ tuổi 86.[50]

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

Trong năm 1994, Tăng thống đương thời của GHPGVNTN Thích Huyền Quang đã ra thông báo cho rằng Phật giáo đang trong "pháp nạn 2" và cho biết mong muốn của giáo hội là "chỉ vì lập trường của Giáo hội không chấp nhận làm công cụ cho bất cứ một thế lực chính trị nào" và "chỉ yêu cầu để Phật giáo được sinh hoạt độc lập trong khuôn khổ tôn giáo và pháp luật".[9] Trước đó, ông cũng đã yêu cầu Đảng và Nhà nước giao lại các tài sản đã bị tịch thu và thả tự do cho nhiều tu sĩ bị quản thúc. Tuy nhiên, sau đó, chính quyền địa phương đã tiếp tục quản thúc và bắt giữ toàn bộ ban lãnh đạo của GHPGVNTN.[48] Trước bối cảnh bị đàn áp, giáo hội cũng đã cộng tác với những sự ủng hộ từ quốc tế để tái lập giáo hội.[18] Trong một buổi phỏng vấn mật với Tampa Bay Times, một nhà sư đã chia sẻ các quyền tôn giáo đã liên tục bị chính quyền vi phạm, đồng thời, mong muốn thay thế Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Chính phủ sáng lập bằng một giáo hội độc lập.[23]

Tác động và ảnh hưởng

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

Biểu tình Phật giáo tại Huế được xem là một cuộc biểu tình "lớn chưa từng có" dưới chế độ Cộng sản. Tại Hội nghị "Diễn biến Hoà bình" diễn ra ở Hải phòng ngày 26 tháng 6 năm 1993, Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Đặng Vũ Hiệp đã đánh giá cuộc biểu tình của các Phật tử Huế gây ra "nguy cơ mất nước".[3] Cũng từ sau sự vụ này, Bộ Chính trị ĐCSVN đã ra chỉ thị cho quân đội trực tiếp tham gia vào việc kiểm soát các tôn giáo nói chung tại Việt Nam.[51]

Những vụ bắt giữ và cải tạo các nhà sư vẫn tiếp tục diễn ra tại miền Nam Việt Nam sau cuộc biểu tình. Theo một thống kê của Ủy ban Helsinki Việt Nam, có đến 67 nhà lãnh đạo Phật giáo và hàng loạt các nhà sư khác đã bị chính quyền bắt vào trại cải tạo hoặc quản thúc trong nhà.[52] Các vụ bắt giữ có quy mô, tổ chức các nhà sư thuộc GHPGVNTN trên diện rộng đã gieo nên mầm mống sợ hãi lên các nhà sư tại miền Nam và khiến nhiều cái tên từng hoạt động chính trị tích cực buộc phải im lặng để không bị bắt giữ.[53] Năm 1997, sau khi Thích Trí Lực mãn hạn tù, ông đã bị chính quyền Việt Nam quản thúc trong thời gian dài, thậm chí đến năm 2002, sau khi mãn hạn quản thúc theo pháp lý, ông vẫn tiếp tục bị chính quyền địa phương quản thúc một cách nghiêm ngặt. Đến ngày 19 tháng 4 năm 2022, ông đã vượt biên sang Campuchia và sau đó được hưởng quy chế tị nạn dưới sự bảo vệ của Liên Hợp Quốc ở Phnôm Pênh. Tuy nhiên, sau đó khoảng một tháng, ở khu vực chợ Russey tại Sihanoukville, ông đã bị mật vụ Việt Nam bắt giữ và tịch thu thẻ tị nạn của Liên Hợp Quốc, dẫn dắt về Việt Nam qua cửa khẩu Mộc Bài tại Tây Ninh. Ngay sau đó, ông đã bị TAND Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 20 tháng tù với tội danh "trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân". Đến năm 2004, ông được trao trả tự do và được Liên Hợp Quốc bảo trợ định cư tại Thụy Điển.[35] (đoạn về Thích Trí Lực theo mình có thể lược bớt để khái quát hơn, và thông tin này cũng đã được nêu vắn tắt ở mục Phản ứng của Tổ chức, chính phủ quốc tế)

Từ trước khi Việt Nam thống nhất, GHPGVNTN đã có nhiều Chi hội tập trung ở Hoa Kỳ, châu Âu...[54] Từ 11 chi bộ của các tín đồ Phật giáo tại các nước như Campuchia, Thái Lan, Ấn Độ, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Pháp và nhiều quốc gia châu Âu khác đã thành lập nên "Hội Phật tử Việt Kiều Hải ngoại", một chi bộ thuộc GHPGVN.[55] Trước khi qua đời, vào năm 1991, Thích Đôn Hậu đã gửi một lá thư kêu gọi Phật tử hải ngoại đoàn kết và phục hồi theo hiến chương 1964 của Giáo hội.[1] Đến năm 1993, từ Quảng Ngãi, Hoà thượng Thích Huyền Quang đã kêu gọi vận động quốc tế cho GHPGVNTN, giao phó ông Võ Văn Ái thiết lập vận động quốc tế và thành lập nên Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế.[55] Sau khi được chính quyền Việt Nam trả tự do vào năm 1998, Thích Quảng Độ cùng Thích Huyền Trang, Thích Đức Nhuận đã gặp gỡ Võ Văn Ái, Thích Hộ Giác, Thích Viên Lý... để kêu gọi phục hồi trở lại giáo hội. Tuy nhiên, vào lúc chuẩn bị thực hiện "Đại hội Phật giáo Việt Nam thống nhất nhiệm kỳ 9" ngay tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định để đưa Thích Quảng Độ lên giữ chức Viện trưởng Viện Hóa đạo.[34][56] Năm 1999, Thích Quảng Độ giữ chức Viện trưởng Viện Hóa đạo đã giao phó ông Võ Văn Ái trở thành Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và trở thành Phát ngôn nhân cho GHPGVNTN trong nước sau đó.[55] Từ năm 2005, cơ quan này đã quyết định thành lập Đài Phát thanh Phật giáo Việt Nam truyền phát thanh vào 19 giờ tới 19 giờ 30 phút vào thứ sáu mỗi ngày về lại Việt Nam.[55]

Chính sách, pháp luật

Trước đó vào tháng 4 năm 1999, Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải đã công bố một Nghị định 26/1999/NĐ–CP về tôn giáo. Nghị định đã khẳng định việc cấm phân biệt đối xử đối với tôn giáo; cũng như việc bình đẳng trước pháp luật giữa người theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Tuy nhiên, ở Điều 5 của Nghị định cũng khẳng định việc sử dụng tôn giáo để chống Nhà nước hay "mê tín dị đoan" đều sẽ bị xử lý theo pháp luật. Ngoài ra, các tôn giáo được sự cho phép của Chính phủ cũng sẽ được pháp luật bảo hộ. Mặt khác, các vấn đề như quyên góp, tu bổ, sửa chữa, mở trường đào tạo tôn giáo... đều phải có sự cho phép của chính quyền địa phương hoặc trung ương, tùy vào trường hợp.[57] Sau khi Nghị định được thông qua, GHPGVNTN do đã bị cấm nên các chiến dịch đàn áp đối với giáo hội này cũng gia tăng liên tục từ đó.[58] Cũng trong năm 1999, Ban Tôn giáo Chính phủ đã ban hành thông tư 01/1999/TT/TGCP được gọi là "hướng dẫn" thực hiện một số Điều từ Nghị định 26/1999/NĐ–CP. Trong thông tư cũng đã nhấn mạnh, việc phong chức đối với Hòa thượng, Ni trưởng phải được sự chấp thuận từ Thủ tướng Chính phủ; đối với Đại đức, Thượng, Ni sư phải do Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt. Đồng thời, việc bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sức cũng phải có sự chấp thuận từ chính quyền địa phương.[59]

Các vụ đàn áp tôn giáo nhiều năm sau

Sự đàn áp của chính phủ Việt Nam vào GHPGVNTN vẫn tiếp diễn mạnh mẽ ở những năm sau đó.[60] Vào năm 2007, Thích Quảng Độ, lúc này đang là Viện trưởng Viện Hóa Đạo thuộc GHPGVNTN được cho là đã cử Thích Không Tánh phân phát 300 triệu đồng cho nhiều người khiếu kiện để yêu cầu tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 22 tháng 8 để tổ chức biểu tình bao gồm việc tập trung đông người, bất bạo động, diễu hành... Tuy nhiên, sau đó việc biểu tình đã bị dời sang 23 tháng 8. Kế hoạch biểu tình sau đó đã bị chính quyền Việt Nam cô lập và ngăn chặn.[61][62] Tuy nhiên, khi bị bắt giữ Thích Không Tánh cho rằng bản thân đang phát tiền cho người nghèo.[62] Các cuộc biểu tình này được lên kế hoạch để tổ chức trong bối cảnh trước dịp Quốc khánh tại Việt Nam.[56]Kon Tum vào năm 2019, một ngôi chùa do tu sĩ Thích Đồng Quang xây dựng cũng đã bị phá hủy chỉ còn lại một căn nhà tạm sau khi xây dựng từ năm 2009. Ngay sau đó, chùa Thiên Quang – một ngôi chùa của GHPGVNTN đã quyết định mua lại mảnh đất và giao cho Thích Nhật Phước quản lý, nhưng đến ngày 27 tháng 10 năm 2022, UBND địa phương đã ra quyết định cưỡng chế ngôi chùa, và cho phép ông di dời trong vòng 45 ngày. Quyết định này đã cáo buộc ngôi chùa được "xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp", mặc dù trước đó trụ trì của ngôi chùa đã có đơn xin phép xây dựng nhưng đã bị chính quyền địa phương từ chối.[63][64] Trong năm 2020, chính quyền tỉnh Nghệ An cũng đã buộc tháo dỡ một cơ sở Phật giáo tại xã Thanh Yên, huyện Thanh Chương do "xây dựng không phép" và lấn chiếm đất trên di tích quốc gia.[65][66] Bốn cán bộ địa phương sau đó cũng đã bị khiển trách vì đã để cơ sở Phật giáo này xây dựng không phép.[66] Tại Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 17 tháng 3 năm 2023, chính quyền địa phương đã yêu cầu tháo dỡ chùa Thiên Quang nằm ở xã Hòa Bình, huyện Xuyên Mộc sau khi cơ sở tín ngưỡng này được cho là đi theo GHPGVNTN.[67] Tuy nhiên, đến ngày 6 tháng 4, UBND huyện Xuyên Mộc đã tống đạt quyết định cưỡng chế chùa Thiên Quang và xem đây là các công trình xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp. Phía GHPGVN cũng lên tiếng khẳng định không trực thuộc quản lý chùa Thiên Quang.[68] Trước lệnh cưỡng chế này, ngay sau đó, nhiều nhà ngoại giao Hoa Kỳ và Đức đã có mặt tài chùa như để phản đối lệnh cưỡng chế của chính quyền địa phương.[67]

Trong báo cáo về tự do tôn giáo tại Việt Nam của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào năm 2022, dẫn lời một số nhà quan sát, nhiều tín đồ tôn giáo tại Việt Nam đã quyết định không công khai tôn giáo của mình do quan ngại về hậu quả bất lợi trong tương lai. Cũng trong báo cáo này, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đưa Việt Nam trở lại vào "danh sách theo dõi đặc biệt" trước các vi phạm nghiêm trọng của nước này trong các vấn đề về tự do tôn giáo và thúc giục chính phủ Việt Nam cải thiện các nỗ lực nhằm bảo vệ quyền này.[60]

Xem thêm

Chú thích

Danh sách các cụm từ viết tắt

Ghi chú

  1. ^ Cái chết của Thích Thiện Minh sau này, theo Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn trên Đài Á Châu Tự Do là do đã bị "đánh chết trong tù".[11]

Tham khảo

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av “Vietnam: The Suppression of the Unified Buddhist Church” [Việt Nam: Cuộc đàn áp Giáo hội Phật giáo Thống nhất]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). tháng 3 năm 1995. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2024.
  2. ^ a b “Vietnam human rights in a season of transition: Law and Dissent in the Socialist Republic of Vietnam”. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). tháng 8 năm 1995. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f g Ỷ Lan (27 tháng 4 năm 2015). “Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau 30/4”. Đài Á Châu Tự Do. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  4. ^ “Nhà nước Việt Nam bách hại Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất”. Việt Nam Thời Báo. Hội nhà báo Việt Nam Độc lập. 22 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  5. ^ a b United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 83.
  6. ^ a b c d e f g h i j k Trần Phương (22 tháng 3 năm 2020). “Phật giáo miền Nam sau 30/4/1975: Cuộc đại nạn thật sự của Phật giáo”. Luật Khoa tạp chí. Đệ tử VOICE. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
  7. ^ Mạnh Kim (15 tháng 5 năm 2019). “Hoa Sen lấm 'bùn đỏ'”. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  8. ^ a b Trần Phương (8 tháng 3 năm 2020). “Phật giáo miền Nam sau 30/4/1975: Khi các nhà sư vỡ mộng”. Luật Khoa tạp chí. Đệ tử VOICE. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2024.
  9. ^ a b Võ Văn Ái (19 tháng 4 năm 2015). “Ba mươi Tháng Tư và Phật giáo VN”. BBC News Tiếng Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  10. ^ a b Quoc-Hung Tran. Lời khai của Quoc-Hung Tran (PDF) (bằng tiếng Anh). Ủy Ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ.
  11. ^ a b Ỷ Lan (29 tháng 4 năm 2015). “Phỏng vấn Đại Lão HT Thích Quảng Độ về GHPGVNTN 40 năm qua”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  12. ^ a b c d e f g h i j k l m “Socialist Republic of Viet Nam: Buddhist monks in detention” [Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhiều tu sĩ Phật giáo bị giam giữ]. Tổ chức Ân xá Quốc tế (bằng tiếng Anh). 30 tháng 4 năm 1994. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  13. ^ a b Hoàng Hạ (15 tháng 5 năm 2021). “Tiến trình vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam”. Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  14. ^ a b Bùi Văn Phú. “'Thầy Quảng Độ là bậc tu hành bất khuất vì đạo pháp'”. BBC News Tiếng Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  15. ^ Thích Minh Ân (16 tháng 11 năm 2023). “Nhìn lại chặng đường 42 năm hình thành và phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  16. ^ “Human Rights Watch World Report 1990 - Vietnam” [Báo báo Tổ chức Theo dõi Nhân Quyền Thế giới 1990 - Việt Nam]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). 1 tháng 1 năm 1991. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Refworld.
  17. ^ Thích Đôn Hậu (15 tháng 11 năm 1991). “Chúc thư của Hòa thượng Chánh Thư ký xử lý Viện Tăng Thống”. Viện Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024 – qua Thư viện Hoa Sen.
  18. ^ a b c d e f g h Cameron W. Barr (21 tháng 11 năm 1994). “In Vietnam, Monks Lead Protest to Repression” [Ở Việt Nam, các nhà sư chủ chốt phản đối đàn áp]. The Christian Science Monitor (bằng tiếng Anh). ISSN 0882-7729. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  19. ^ a b Bruun & Jacobsen 2003, tr. 101.
  20. ^ a b c Bruun & Jacobsen 2003, tr. 102.
  21. ^ a b c “Căng thẳng giữa Phật giáo và chính quyền trong dịp lễ tang đại lão hoà thượng Thích Đôn Hậu”. AFP (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2024 – qua Diễn Đàn.
  22. ^ a b Nguyễn Túc (3 tháng 3 năm 2023). “Đại lão hòa thượng Thích Đôn Hậu - Người thể hiện nhuần nhuyễn "Đạo pháp và dân tộc"”. Báo Đại biểu Nhân dân. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  23. ^ a b c d e f g Reese Erlich (23 tháng 7 năm 1993). “Buddhist monks in Vietnam pressing demands for rights” [Tu sĩ Phật giáo ở Việt Nam bức xúc đòi nhân quyền]. Tampa Bay Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Newspapers.com.
  24. ^ a b c United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 173.
  25. ^ a b c d e f g Shenon, Philip (20 tháng 10 năm 1993). “Hue Journal; Once Again, a Fiery Suicide Sets Vietnam Aflame”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  26. ^ a b c d FIDH 2023, tr. 23.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFFIDH2023 (trợ giúp)
  27. ^ a b c d e f g h i j k l m United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 171.
  28. ^ a b “The Gazette from Montreal, Quebec, Canada • 10”. Los Angeles Times. 29 tháng 4 năm 1995. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Newspapers.com.
  29. ^ “Chương trình đặc biệt Kỷ niệm 25 năm cuộc Biểu tình 40 nghìn Phật tử Huế ngày 24-5-1993”. Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. 18 tháng 5 năm 2018. Phút thứ 15:30 trong đoạn ghi âm. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  30. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 84.
  31. ^ a b c d United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 172.
  32. ^ a b c d Shenon, Philip (17 tháng 11 năm 1993). “4 Buddhist Monks in Vietnam Get Prison Terms”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  33. ^ “Lincoln Journal Star from Lincoln, Nebraska • 8”. Associated Press. 18 tháng 7 năm 1994. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Newspapers.com.
  34. ^ a b c d e TTXVN (26 tháng 8 năm 2007). “Lật mặt những kẻ phản động kích động người khiếu kiện gây rối”. Báo Quân đội nhân dân. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  35. ^ a b c Ỷ Lan (28 tháng 9 năm 2005). “Lời chứng của cựu tăng sĩ Thích Trí Lực trước Quốc hội Châu Âu”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  36. ^ a b c d e PV - ANTG (18 tháng 4 năm 2009). “Những việc làm sai trái của ông Thích Quảng Độ: Khẩu phật, tâm xà”. Báo Công an Nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  37. ^ a b c “Vietnam: Refugee Monk's Arrest a Mockery of Justice” [Việt Nam: Việc bắt giữ một tu sĩ tị nạn là một sự nhạo báng công lý]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). 17 tháng 9 năm 2003. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  38. ^ a b c Nghị viện châu Âu 2008, tr. 3–4.
  39. ^ Thích Quảng Độ (1 tháng 1 năm 1996). “Thư viết cho ông Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam” (PDF). Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024 – qua Thư viện Hoa Sen.
  40. ^ “Chính giới Hoa Kỳ, Hòa thượng Thích Quảng Độ và chặng đường 25 năm”. VOA Tiếng Việt. 27 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  41. ^ Phan Văn Khải (23 tháng 7 năm 1993). “Chỉ thị số 379/TTg của Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị về các hoạt động tôn giáo”. Thủ tướng Chính phủ. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Báo Chính phủ.
  42. ^ Võ Văn Kiệt (4 tháng 6 năm 1993). “Nghị định số 37/CP của Chính phủ: Nghị định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Ban Tôn giáo của Chính phủ”. Chính phủ Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Báo Chính phủ.
  43. ^ Dương Minh Anh (28 tháng 8 năm 2007). “Ông Thích Quảng độ đã lấy oán báo ơn như thế nào?”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  44. ^ a b c Cameron W. Barr. “Vietnam's Monks Lead In Battle for Freedom” [Các tu sĩ Việt Nam dẫn đầu trong cuộc chiến vì tự do]. The Christian Science Monitor. ISSN 0882-7729. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  45. ^ “Cựu Tổng thống CH Tiệp gửi lời chào đến người dân Việt Nam và các nhà tranh đấu cho dân chủ”. Đài Á Châu Tự Do. 15 tháng 4 năm 2003. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  46. ^ P.V (27 tháng 8 năm 2007). “Thích Quảng Độ và các tham vọng chính trị đội lốt tôn giáo”. Báo Nhân Dân. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  47. ^ Hoàng Ngọc Vĩnh (tháng 8 năm 1999). “Mấy suy nghĩ về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn hóa xã hội Huế”. Tạp chí Sông Huơng (126).
  48. ^ a b Robert Topmiller (11 tháng 7 năm 2008). “HT Thích Huyền Quang và Giáo hội PGVNTN”. BBC News Tiếng Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  49. ^ Boomhower 2024, tr. 264.
  50. ^ “Hội Ân Xá Quốc tế kêu gọi Việt Nam trả tự do ngay tức thời và vô điều kiện cho những người bất đồng chính kiến già cả đang bị giam giữ”. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. 15 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  51. ^ “Nội dung bài điều trần về tình hình đàn áp Phật giáo tại Việt Nam của Ông Võ văn Ái”. Truyền giáo Việt Nam tại Á Châu. 2001. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2024.
  52. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 193-199.
  53. ^ Boomhower 2024, tr. 265.
  54. ^ Thích Thiện Hoa (1971). “50 năm Chấn hưng Phật giáo Việt Nam”. Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  55. ^ a b c d “Sơ lược về Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất”. Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế. 5 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
  56. ^ a b PV Nội chính (26 tháng 8 năm 2007). “Bài 1: Thích Quảng Độ - kẻ đi ngược lợi ích dân tộc”. Báo An ninh Thủ đô. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  57. ^ Phan Văn Khải (9 tháng 4 năm 1999). “Nghị định số 26/1999/NĐ-CP của Chính phủ: Về các hoạt động tôn giáo”. Chính phủ Việt Nam. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Báo Chính phủ.
  58. ^ “Human Rights Watch World Report 2000 - Vietnam” [Báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Thế giới 2000 - Việt Nam]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). 1 tháng 12 năm 1999. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Refworld.
  59. ^ Lê Quang Vịnh (6 tháng 6 năm 1999). “Thông tư số 01/1999/TT/TGCP của Ban Tôn giáo Chính phủ: Thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều trong Nghị định của Chính phủ số 26/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 4 năm 1999 về các hoạt động tôn giáo”. Ban Tôn giáo Chính phủ. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Báo Chính phủ.
  60. ^ a b “2022 Report on International Religious Freedom: Vietnam” [Báo cáo về Tự do Tôn giáo Quốc tế 2022: Việt Nam]. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (bằng tiếng Anh). 2022. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  61. ^ TTXVN (25 tháng 8 năm 2007). “Chặn đứng một âm mưu gây rối an ninh trật tự”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  62. ^ a b Anh Thư (27 tháng 8 năm 2007). “Bài 2: Thích Không Tánh – Tay sai đắc lực của Thích Quảng Độ”. Thông tấn xã Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Hànộimới.
  63. ^ “Kon Tum: Cưỡng chế Sơn Linh Tự nhằm "triệt tiêu chùa không theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam"”. Đài Á Châu Tự Do. 13 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  64. ^ Kon Tum tháo dỡ chùa Sơn Linh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, 16 tháng 12 năm 2022, truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024
  65. ^ Quang Đại (26 tháng 5 năm 2020). “Nghệ An: Buộc tháo dỡ chùa Linh Sâm xây "chui" trên di tích quốc gia”. Báo Lao động. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  66. ^ a b Doãn Hòa (3 tháng 2 năm 2020). “Vụ 'chùa triệu đô xây chui': Cảnh cáo, khiển trách 4 cán bộ xã”. Báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  67. ^ a b Huy Nguyễn; VOA tiếng Việt (13 tháng 4 năm 2023). “Giới ngoại giao Mỹ, Đức thăm chùa Thiên Quang giữa lúc chùa có lệnh cưỡng chế”. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  68. ^ Hoàng Anh (6 tháng 4 năm 2023). “Thông tin về việc quyết định cưỡng chế các công trình xây dựng trái phép ở "Cốc Thiên Quang"”. Báo Công an Nhân dân. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.

Nguồn

  • FIDH; VCHR (tháng 6 năm 2023). “Một lịch sử đầy bạo lực: Đàn áp quyền tự do hội họp ở Việt Nam” (PDF). Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền. FIDH. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2023.
  • Văn phòng II Viện Hóa Đạo (1996). Phật Giáo Việt Nam, Biến Cố và Tư Liệu: Hai Mươi Năm Trong Chế Ðộ Cộng Sản (1975-1995). Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại - Hoa Kỳ. tr. 751. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2023.
  • Đỗ Trung Hiếu (1994). “Thống nhất Phật giáo Việt Nam: Tư liệu lịch sử về việc Đảng Cộng sản hình thành Hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán sứ Hà Nội ngày 4.11.1981 để làm công cụ chính trị cho Đảng và Nhà nước Cộng sản” (PDF). Hành động cho Dân chủ Việt Nam, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2023.
  • Thich Quang Do is appointed new leader of the Unified Buddhist Church of Vietnam [Thích Quảng Độ được bổ nhiệm làm lãnh đạo mới của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất] (PDF) (bằng tiếng Anh). Texas: Nghị viện châu Âu. 17 tháng 8 năm 2008. tr. 7.
  • Bruun, Ole; Jacobsen, Michael (2 tháng 9 năm 2003). Human Rights and Asian Values: Contesting National Identities and Cultural Representations in Asia (bằng tiếng Anh). Routledge. ISBN 978-1-135-79626-6. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2024.
  • Boomhower, Ray E. (15 tháng 3 năm 2024). The Ultimate Protest: Malcolm W. Browne, Thich Quang Duc, and the News Photograph That Stunned the World (bằng tiếng Anh). University of New Mexico Press. ISBN 978-0-8263-6570-5. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2024.
  • United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific (1996). Human Rights in Vietnam: Joint Hearing Before the Subcommittees on Asia and the Pacific and International Operations and Human Rights of the Committee on International Relations, House of Representatives, One Hundred Fourth Congress, First Session, November 8, 1995 (bằng tiếng Anh). U.S. Government Printing Office. ISBN 978-0-16-053472-0. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2024.

Liên kết ngoài

  • Phóng sự "Lửa phực lên từ Huế". Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam & Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế – qua YouTube. 2 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  • Cổng thông tin Việt Nam
  • Cổng thông tin Phật giáo
  • Cổng thông tin Thời sự